Theo các chuyên gia, năm 2017, Việt Nam có khoảng 200 nghìn cử nhân sẽ thất nghiệp. Những năm gần đây, tỉ lệ thất nghiệp luôn là nỗi ám ảnh trong xã hội.
Tiến sỹ Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ GD-ĐT đã chia sẻ những quan điểm về vấn nạn thất nghiệp hiện nay.
Nhiều câu hỏi cần giải đáp
Nhắc đến con số 200 nghìn cử nhân thất nghiệp, người ta hẳn rùng mình khi nghĩ đến số phận và cuộc sống của những người trẻ – chỉ vài năm trước con hân hoàn đặt chân vào cổng trường đại học. Nay, cuộc sống và tương lai mờ mịt khi chưa có công ăn việc làm. Xã hội lãng phí tài nguyên và mang thêm những gành nặng khó định lượng.
Theo Tiến sỹ Hoàng Ngọc Vinh, chúng ta cần xem xét tình trạng thất nghiệp một cách cụ thể hơn nữa.
“Nhiều người thấy nói 200.000 cử nhân thất nghiệp vội vàng phán xét về chất lượng đào tạo, về việc mở rộng quy mô giáo dục Đại học… nhưng lại không đặt câu hỏi ngành đào tạo nào có số thất nghiệp nhiều? Ở đâu đào tạo thất nghiệp nhiều? Sinh viên trường nào thất nghiệp nhiều? Trường công hay trường tư?” – Tiến sỹ Vinh chia sẻ.
Theo ông, hiện có giải pháp xuất khẩu khoảng 200.000 lao động trình độ cử nhân chưa có việc làm. Điều quan trọng là phải xác định cho được các thị trường có nhu cầu cũng như ngành đào tạo đang có nhu cầu.
“Cần mất thời gian điều tra khảo sát nhu cầu ở thị trường nước ngoài về số lượng cũng như nhu cầu kỹ năng… Nếu đưa cử nhân đi lao động ở các thị trường nước ngoài thì cần đặt vấn đề về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ cũng như các kỹ năng văn hóa, hiểu biết luật pháp… của lao động Việt Nam. Không đạt được các yêu cầu cần thiết, có thể dẫn đến tình trạng khi xuất khẩu lao động cử nhân được sử dụng dưới mức trình độ đào tạo, phải làm các công việc của lao động phổ thông hoặc có yêu cầu kỹ thuật thấp” – Tiến sỹ Vinh cảnh báo.
Đầu tư cho sinh viên còn thấp
Mổ xẻ nguyên nhân dẫn đến tình trạng cử nhân thất nghiệp, Tiến sỹ Vinh cho rằng, đây là tình trạng chung ở nhiều quốc gia, ngay cả ở những đất nước phát triển. Giải pháp ở các nước này là phát triển kỹ năng cho người trẻ, đưa những người thất nghiệp trở lại các cơ sở giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp để lấy văn bằng chứng chỉ (thế giới thường gọi là liên thông ngược – reversed transfer).
TIến sỹ Vinh phân tích: “Ở Việt Nam, chất lượng đào tạo Đại học đang có vấn đề do nhiều nguyên nhân. Chẳng hạn, việc mở rộng quy mô nhưng không tương xứng điều kiện nguồn lực đảm bảo chất lượng. Đặc biệt suất đầu tư trên mỗi sinh viên còn rất thấp, chỉ bằng 1/30 đến 1/40 so với các quốc gia phát triển do chúng ta thực hiện chính sách tài chính học phí thấp.
Chương trình đào tạo còn những nội dung nặng về lý luận, ít góp phần nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất của người học mà doanh nghiệp cần.
Tổ chức thực hiện chương trình không phù hợp, do chưa coi ngoại ngữ phải là môn công cụ dạy tăng cường ở năm thứ nhất để sinh viên có năng lực tự tìm hiểu, khai thác nguồn học liệu của thế giới. Đội ngũ giảng viên với số lượng có trình độ tiến sĩ (thật) còn khá thấp so với chuẩn mực chung. Chính sách và cơ chế kiểm định đảm bảo chất lượng vẫn chưa thực sự góp phần cải thiện chất lượng giáo dục Đại học”.
Ông cũng chỉ ra một số nguyên nhân khác như: Do nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa đủ hấp thụ số cử nhân tốt nghiệp, trong khi nhiều doanh nghiệp FDI chỉ muốn tuyển lao động phổ thông có trình độ tốt nghiệp trung học nên xuất hiện hiện tượng cung vượt quá cầu.
Theo nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục – Đào tạo, để lựa chọn chính sách hợp lý giải quyết số hơn 200.000 cử nhân chưa có việc làm, cần có thống kê và phân tích ngành đào tạo của các cử nhân nói trên, phối hợp với các bộ ngành khuyến cáo với Chính phủ có chương trình phát triển kỹ năng, đào tạo khởi nghiệp; có cơ chế hỗ trợ vốn cho những ai có nhu cầu khởi nghiệp, hình thành thị trường sức lao động tích cực, minh bạch, thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế, sắp xếp lao động hợp lý.
Quỳnh Anh (Tổng hợp)